Tóm tắt tiểu sử Đức Đạt Lai Đạt Ma thứ 14 – TENZIN GYATSO
Đức Đạt Lai Đạt Ma 14 thời niên thiếu
Đức Đạt-lại Lạt-ma thứ 14 sinh vào ngày 6 tháng 7 năm 1935,
tên là Lhamo Thondrup, trong một gia đình nghèo ở Taktser, tỉnh
Amdo. Từ Lhamo Thondu có nghĩa là ‘Thần ban phước cho lời ước
nguyện’. Còn Taktser là tên làng, (có nghĩa là ‘hổ gầm’ một
ngôi làng nhỏ và nghèo nằm trên đồi, nhìn xuống một thung lũng
bao la. Đồng cỏ ở đây còn mênh mông, chưa có nhà ở hoặc trang
trại, chỉ có dân du mục qua lại. Lý do là vì thời tiết thất
thường ở vùng nầy. Như Đạt-lại Lạt-ma viết trong tự truyện
của mình Tự do trong lưu đày[1] như sau: »Hồi thơ ấu, gia đình tôi là một trong 20 gia đình có đời sống rất bấp bênh trên mảnh đất nghèo đó«.
Cha mẹ của Đạt-lại Lạt-ma là những nông dân nghèo, hầu như
chỉ trồng hai loại lúa mạch chính mà dân Tây Tạng thường dùng,
xen lẫn khoai tây. Cha của Đạt-lại Lạt-ma là một người tầm
thước, tính tình nóng nảy. »Tôi nhớ có một lần tôi kéo râu ông và bị một trận đòn rất nặng«. Đạt-lại Lạt-ma nhớ lại: »Tuy nhiên, ông là người rất nhân từ và không bao giờ thù hận ai«. Đạt-lại Lạt-ma nhớ lại về mẹ mình: »Mẹ tôi có lẽ là người phụ nữ nhân đức nhất đời mà tôi biết được«.
Đức Đạt-lại Lạt-ma có một người chị và ba người anh. Dolma
là người chị cả, lớn hơn Đạt-lại Lạt-ma 18 tuổi. Đạt-lại
Lạt-ma viết kể: »Khi tôi được mẹ sinh ra, chị Dolma đã giúp mẹ
tôi hầu hết mọi việc trong nhà và còn làm cô mụ đón tôi ra
đời nữa. Lúc vừa lọt lòng mẹ, thấy tôi chỉ mở một mắt, không
chút do dự, chị lấy hai ngón tay banh hai mí của con mắt còn
nhắm kia ra. Rất may, chị đã không làm hại gì mắt tôi cả«.
Người anh lớn của Đạt-lại Lạt-ma là Thupten Jigme Norbu, được
xem là hóa thân của một vị Lạt-ma cao cấp, Taktser Rinpoche[2] –
Gyalo Thondrup hơn Đạt-lại Lạt-ma 8 tuổi và người anh thứ hai,
Lobsany Samten hơn Đạt-lại Lạt-ma 3 tuổi. »Dĩ nhiên, không ai trong
gia đình tôi nghĩ rằng tôi là một đứa trẻ khác thường. Hầu như
người ta khó có thể nghĩ rằng trong một gia đình mà lại sinh
ra hai vị Tulku (hóa thân) và chắc chắn cha mẹ tôi cũng không bao
giờ ngờ tôi sẽ được tôn làm Đạt-lại Lạt-ma«.
Dù sự kiện cha của Đạt-lại Lạt-ma khỏi bệnh khi ngài ra
đời được xem như là một điềm lành, nhưng chẳng ai ghi nhận đó
là một dấu hiệu gì trọng đại. »Tôi cũng không hay biết gì về
những chuyện sẽ xảy ra«. Đức Đạt-lại Lạt-ma hồi tưởng lại ký
ức thời tuổi nhỏ.
»Tôi nhớ có lần mình chứng kiến hai nhóm trẻ đánh nhau, tôi
chạy đến giúp vào nhóm đang bị yếu thế … Một việc tôi nhớ
rất rõ thời nhỏ tuổi là lần theo mẹ tôi ra chuồng gà lượm
trứng rồi nán ở lại đó. Tôi rất ưa ngồi vào trong ổ gà và
miệng kêu cục tác giả tiếng gà mái kêu lúc đẻ trứng! Một trò
chơi khác lúc còn nhỏ là tôi rất thích xếp đồ đạc vào trong
một túi xách, làm như thể là mình sắp đi xa. Miệng lại nói:
›Tôi sắp điLhasa, tôi đi Lhasa đây‹. Chuyện nầy, cùng với chuyện
tôi luôn luôn đòi ngồi đầu bàn, sau được mọi người cho là những
dấu hiệu chứng tỏ đời tôi chắc là đã được dành sẵn cho
những việc hệ trọng.«
Đức Đạt-lại Lạt-ma được xem là hóa thân của vị Đạt-lại Lạt-ma Tây Tạng thứ 13 tiền nhiệm[3] (vị đầu tiên[4] sinh năm 1351) được xem là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm[5],
là Bồ-tát của lòng Từ bi vô lượng, còn được gọi là Liên Hoa
Thủ Bồ-tát (vị Bồ-tát tay cầm hoa sen trắng). Thực vậy, nếu tìm
về 14 đời trước nữa, thì Đạt-lại Lạt-ma là một chú bé thuộc
dòng dõi Bà-la-môn sống vào thời Đức Phật Thích-ca Mâu-ni.
»Người ta thường hỏi tôi có thực tin như vậy hay không? Câu trả
lời không giản đơn tí nào. Nhưng nay với tuổi 56, khi tôi đã quan
sát được những kinh nghiệm từ cuộc sống đã cho tôi một niềm
tin Phật pháp sâu sắc, tôi tin tưởng một cách dễ dàng rằng tôi
có liên hệ tâm linh với 13 vị Đạt-lại Lạt-ma tiền nhiệm, với
Bồ Tát Quán Thế Âm và với Đức Phật nữa«.
PHÁT HIỆN ĐẠT-LẠI LẠT-MA
Khi Lhamo Thondup chưa đầy ba tuổi, thì phái đoàn do chính phủ
Tây Tạng cử đi tìm kiếm hóa thân mới của Đạt-lại Lạt-ma tìm
tới tu viện Kumbun. Họ đến đó là do một số điềm báo trước
liên quan đến vị Đạt-lại Lạt-ma tiền nhiệm thứ 13, Thupten
Gyatso, chết năm 1933, lúc ngài 57 tuổi. Ngài thị tịch trong tư
thế ngồi kiết già, người ta phát hiện mặt ngài hướng về phía
Đông Nam. Sau đó ít lâu, vị phụ chính (regent) cũng là một vị Lạt-ma niên trưởng (senior lama), đã có được linh kiến (vision). Khi nhìn xuống hồ thiêng Lhamoi Lhatso ở phía Nam Tây Tạng, ngài thấy rõ ràng ba chữ Tây Tạng Ah, Ka và Ma nổi
trên mặt nước. Tiếp theo là hình ảnh một tu viện ba tầng, mái
dát vàng, ma màu xanh hồ thủy, cùng một lối mòn nhỏ dẫn lên
đồi. Cuối cùng, vị phụ chính còn thấy một ngôi nhà nhỏ có
một máng xối với hình thù rất kỳ lạ. Vị phụ chính chắc chắn
đó là chữ Ah, chỉ cho tỉnh Amdo, một tỉnh lỵ ở phía
Đông Bắc Tây Tạng, nên một phái đoàn đã được phái đến đó tìm
kiếm Lạt-ma tái sinh.
Khi họ tới Kumbun, các phái viên có cảm giác mình đã đi đúng đường. Nếu đúng chữ Ah hàm nghĩa là tỉnh Amdo, thì chữ Ka phải
là tu viện Kumbun, vì quả thực tu viện nầy có ba tầng và có
mái lợp màu xanh hồ thủy. Bây giờ họ chỉ cần xác định ngọn
đồi và căn nhà nhỏ có máng xối kỳ lạ nữa mà thôi. Thế nên
họ bắt đầu tìm kiếm qua khu làng bên cạnh. Họ nhìn thấy khúc
thân cây đỗ tùng gồ ghề làm máng xối trên mái nhà của cha mẹ
Đạt-lại Lạt-ma. Họ tin chắc rằng vị Đạt-lại Lạt-ma tái sinh
không thể ở một nơi nào khác ngoài nơi đây nữa. Tuy nhiên, thay
vì nói thật mục đích cuộc viếng thăm của phái đoàn, họ xin
nghỉ lại ngôi nhà nhỏ đó một đêm. Kewtsang Rinpoché, người
trưởng phái đoàn, đóng vai thị giả, suốt buổi tối, quan sát
và chơi với cậu bé nhỏ nhất trong nhà (tức Đạt-lại Lạt-ma)
Cậu bé (tức Đạt-lại Lạt-ma) nhận ra ông ta và gọi: »Sera Lama, Sera Lama!«[6] Sera
chính là tu viện của Kewtsang Rinpoche. Ngày hôm sau, họ rời
khỏi ngôi nhà nhỏ. Rồi sau đó, họ trở lại như một phái đoàn
viếng thăm chính thức. Họ mang theo rất nhiều đồ dùng và pháp
khí của vị Đạt-lại Lạt-ma tiền nhiệm thứ 13, cùng một số đồ
dùng khác giống hệt nhau nhưng không phải là vật của ngài. Lần
nào, vị Đạt-lại Lạt-ma nhỏ tuổi cũng nhận ra đồ vật của
Đạt-lại Lạt-ma thứ 13 tiền nhiệm: »Cái nầy của tôi! Nó của
tôi!«
Điều nầy làm cho phái đoàn tin chắc rằng họ đã phát hiện
ra hóa thân mới của Đạt-lại Lạt-ma thứ 13. Chẳng bao lâu sau
đó, cậu bé ở làng Taktser được công nhận là vị Đạt-lại
Lạt-ma mới tái sinh.
Vị Lạt-ma mới phát hiện được đưa đến tu viện Kumbum. »Có
chút gì đó không vui trong suốt thời kỳ phải xa cha mẹ tôi«. Sau
nầy, Đức Đạt-lại Lạt-ma viết lại từ hồi ức về việc phải xa
lìa gia đình và không khí nơi tu viện.
Tuy nhiên, có hai điều an ủi cho tôi khi sống trong tu viện.
Trước hết là anh kế tôi, Lobsang Samten, cũng đang ở đây. Niềm
an ủi thứ hai là vị sư già, thầy của anh tôi, ngài rất hiền
từ, thường bọc tôi trong chéo áo của ngài.
Cuối
cùng Đạt-lại Lạt-ma trẻ Lhamo Thondup được đoàn tụ với gia
đình và sẽ cùng đi đến thủ đô Lhasa. Nhưng chuyến đi nầy phải
chờ đến 18 tháng sau, vì ông tỉnh trưởng Ma Bufeng từ chối không
cho cậu bé Lạt-ma tái sinh ra đi nếu không nộp cho ông ta một số
tiền rất lớn. Cho đến mãi tới mùa hè năm 1939, vị Lạt-ma trẻ
mới đi đến được thủ đô Lhasa, gặp được đầy đủ cha mẹ, cả anh
trai Lobsang Samten, cả phái đoàn trước đây đã phát hiện ra
Đạt-lại Lạt-ma tái sinh cùng nhiều Phật tử đi hành hương.
Cuộc hành trình đến Lhasa cần đến ba tháng. »Tôi nhớ rất ít
các chi tiết. Chỉ nhớ là rất ngỡ ngàng trước những điều mà
tôi được thấy: đàn bò rừng lông dài (drong) chạy nhốn nháo trên cánh đồng, những bầy lừa hoang (kyang) và thỉnh thoảng có bóng dáng những con nai nhỏ (gowa, nawa)
chạy vụt qua thật nhanh như những bóng ma. Tôi cũng rất thích
những đàn ngỗng lớn thường kêu lên inh ỏi mỗi khi chúng bay
qua.«
Phái đoàn của Đạt-lại Lạt-ma Lhamo Thondup được một phái
đoàn của chính phủ đón tiếp khi còn cách thủ đô Lhasa vài ngày
đường, được hộ tống đến vùng bình nguyên Doeguthang, cách thủ
đô chừng hai dặm đường. Nghi lễ tấn phong Đạt-lại Lạt-ma thứ 14
làm vị lãnh đạo tinh thần cho cả nước Tây Tạng kéo dài suốt
một ngày. Sau đó, đức Đạt-lại Lạt-ma được đưa đến Norbulingka
cùng với người anh Lobsang Samten, đó là cung điện mùa hè của
các vị Đạt-lại Lạt-ma, nằm ở phía Tây thủ đô Lhasa.
Vào mùa Đông năm 1940, Đạt-lại Lạt-ma Lhamo Thondrup được đưa
qua cung điện Potala để chính thức nhận chức vụ lãnh đạo tinh
thần của Tây Tạng. Sau đó ít ngày, Đạt-lại Lạt-ma Lhama Thondrup
được đưa đến chùa Jokhang, để được làm lễ xuống tóc (taphue) và hành điệu ở đó. »Từ nay, tôi được cạo đầu và đắp y ca-sa màu vàng«.
Đức Đạt-lại Lạt-ma bắt đầu được trang bị cho những kiến
thức cơ bản gồm những chương trình bắt buộc cho tất cả các tăng
sĩ để đạt được học vị Tiến sĩ Phật học (geshe), như
văn hóa, tư tưởng Phật giáo, nghệ thuật Tây Tạng, tiếng Sanskrit
và y khoa. Đây là môn học quan trọng nhất, gồm tư tưởng học
thuật của năm ngành:
– Prajñā parāmitā: trí tuệ bát nhã
– Mādhyamika: Trung quán luận, học thuyết của Trung quán tông.
– Vinaya: Giới luật của người xuất gia
– Abhidharma: A-tỳ-đạt-ma, vi diệu pháp, luận tạng, các luận giải kinh điển Phật giáo[7].
– Pramāṇa: nhân minh học[8]
THỜI THANH NIÊN CỦA ĐẠT-LẠI LẠT-MA
Một ngày trước khi đại hội ca kịch mùa hè năm 1950 bắt đầu,
Đức Đạt-lại Lạt-ma vừa bước ra khỏi phòng tắm ở tòa nhà
Norbulingka thì bỗng thấy mặt đất dưới chân rung chuyển. Khi hiện
tượng tự nhiên nầy lan rộng, mọi người bắt đầu cho đó chẳng
qua chỉ là một trận động đất mà thôi. Thực ra, đó chính là
điềm báo trước những xáo trộn sẽ xảy đến.
Hai ngày sau, viên phụ chính Tathag nhận được một điện thư của
chính quyền tỉnh Kham, ở vùng Chamdo, báo tin quân đội Trung
Quốc đã tấn công một đồn binh của Tây Tạng. Mùa Thu năm trước,
đã có tin chính phủ Trung Quốc cho quân lấn chiếm sang biên giới,
họ có ý định giải phóng Tây Tạng ra khỏi sự áp bức của đế
quốc xâm lược.
»Xem chừng như người Trung Hoa sắp thực hiện lời hăm dọa trên.
Tôi biết rõ nước tôi chỉ có chừng 8500 người vừa quân vừa
tướng. Không thể nào đối chọi nổi với một quân đội giải phóng
nhân dân vừa chiến thắng trong cuộc đấu tranh giải phóng ở xứ
họ.
Hai tháng sau, vào tháng 10, ở Lhasa nhận được tin 80.000 quân
giải phóng nhân dân Trung Hoa đã vượt sông Drichu, phía Đông Chamdo:
»Cái rìu đã bổ xuống, và không bao lâu, Lhasa sẽ phải thất
thủ«.
Khi mùa Đông đến thì tin tức càng xấu hơn. Người dân Tây Tạng
đòi hỏi Đức Đạt-lại Lạt-ma phải nắm quyền nhiếp chính ngay[9]. Chính phủ quyết định thỉnh ý thần linh qua Cốt thánh (nechung oracle). Người nhập cốt (kulen)
bước đến chỗ Đức Đạt-lại Lạt-ma đang ngồi, đặt một tấm khăn
lụa trắng lên đùi của Ngài rồi nói: »Thu-la-bap« có nghĩa:
»Thời của ông đã đến!«
Vào lúc 15 tuổi, Đức Đạt-lại Lạt-ma chính thức đăng quang,
làm vị lãnh đạo tinh thần của đất nước Tây Tạng. Đó là ngày
17 tháng 11 năm 1950.
Đầu tháng 11, khoảng hai tuần lễ trước ngày nhậm chức,
người anh lớn của Đức Đạt-lại Lạt-ma tới Lhasa. »Khi nhìn thấy
anh tôi, tôi biết anh đang đau khổ vô cùng. Vì vùng Amdo, nơi chúng
tôi sinh ra và nơi có tu viện Kumbun, nằm gần ngay biên giới, đã
bị Trung Hoa chiếm đóng rất nhanh… Anh bị giam lỏng trong tu
viện như tù nhân. Chính phủ Trung Hoa vừa thuyết phục anh theo
đường lối chính trị của họ, vừa tìm cách hạ bệ anh. Họ có dự
tính để anh tự do trở về Lhasa, với điều kiện là anh chịu
thuyết phục tôi công nhận sự cai trị của Trung Hoa. Nếu tôi từ
chối, thì anh phải giết tôi. Anh sẽ được họ tưởng thưởng.«
Để đánh dấu ngày nhiếp chính, Đức Đạt-lại Lạt-ma ban lệnh
đại ân xá, tất cả các tù nhân đều được trả tự do. »Tôi hài
lòng vì có dịp để làm việc nầy, dù đã có nhiều lần tôi rất
ân hận. Khi tôi đưa viễn vọng kính lên nhìn sang sân nhà tù, thấy
trống không, chỉ còn các con chó đang sục sạo kiếm thức ăn
thừa. Dường như tôi vừa bỏ qua một điều gì đó trong đời«.
Chẳng bao lâu sau khi nhận ra mình đã trở thành người lãnh
đạo của sáu triệu dân, Ngài phải đương đầu với một cuộc chiến
tranh toàn diện. Việc đầu tiên là Ngài bổ nhiệm hai vị Thủ
tướng[10] Tăng sĩ Lobsany Tashi và một cư sĩ, ông Lukhangwa, là một viên chức hành chánh có nhiều kinh nghiệm.
»Thế là xong. Tôi quyết định, sau khi thảo luận trong hội
đồng nội các, phải gởi các phái đoàn sang Mỹ, Anh quốc và
Népal với hy vọng họ sẽ can thiệp cho tình hình Tây Tạng. Gởi
một phái đoàn khác sang Trung Hoa thương thảo, hy vọng họ sẽ
rút quân. Các phái đoàn đều lên đường vào cuối năm đó. Sau đó
ít lâu, quân đội Trung Hoa tăng cường nhiều ở khu vực phía Đông,
nên tôi cùng các viên chức cao cấp quyết định dời xuống miền
Nam Tây Tạng. Như thế, khi tình hình xấu đi, chúng tôi có thể dễ
dàng vượt biên giới sang tỵ nạn ở Ấn Độ.«
Trong khi đó, hai thủ tướng Lobsany Tashi và Lukhangwa vẫn ở lại Lhasa thay tôi giải quyết mọi việc quốc sự.«
Trong khi Đạt-lại Lạt-ma cư ngụ ở Dromo, giáp ngay biên giới
xứ Sikkim, Đức Đạt-lại Lạt-ma nhận được tin tức về các phái
đoàn được gởi ra nước ngoài. Chỉ có phái đoàn đi Trung Hoa là
đến đích. Các phái đoàn khác đều bị từ chối. »Không thể nào
tin được chính phủ Anh quốc bây giờ lại đồng ý với việc Trung
Hoa đòi cai trị Tây Tạng«. Đức Đạt-lại Lạt-ma kể lại, Ngài
rất buồn khi Hoa Kỳ cũng từ chối sự giúp đỡ: »Tôi nhớ, lúc
đó tôi rất buồn, tôi thực sự hiểu rằng chúng tôi sẽ phải đương
đầu một mình với chính quyền Trung Hoa to lớn mạnh mẽ.«
Thất vọng vì những biểu lộ khác nhau về tình hình Tây Tạng
của Anh và Hoa Kỳ. Đức Đạt-lại Lạt-ma, trong nỗ lực cuối cùng
ngăn chặn cuộc chiếm đóng lan rộng của Trung Hoa, đã phái viên
thống đốc của tỉnh Kham, tên là Ngabo Ngawany Jigne đến Bắc Kinh
để thương thuyết với chính phủ Trung Hoa.
»Tôi hy vọng ông ta sẽ trình bày cho nhà cầm quyền Trung Hoa
biết chúng tôi không cần họ ›giải phóng‹, chúng tôi chỉ muốn
tiếp tục sống hòa bình bên cạnh nước láng giềng to lớn đó
thôi«.
»Thế rồi, một buổi tối, tôi ngồi nghe radio một mình… Một
giọng nói chói tai thông báo ›một thỏa ước‹ mười bảy điểm để
giải phóng Tây Tạng trong hòa bình vừa được chính phủ Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa ký kết với chính quyền địa phương của Tây
Tạng. Hóa ra, phái đoàn do Ngabo dẫn đầu đã bị ép buộc phải
ký kết »thỏa ước«. Điều nguy hiểm hơn là, Ngabo không được uỷ
quyền đại diện tôi để ký kết bất kỳ văn bản nào, mà chỉ có
quyền thương thuyết, vì quốc ấn tôi còn giữ tại Dromo«.
Sau »thỏa ước« đó, Tây Tạng bị biến thành một phần đất dưới sự cai trị của »mẫu quốc« Trung Hoa.

THỌ GIỚI VÀ HÀNH ĐẠO
Vào mùa hè năm 1953, Đức Đạt-lại Lạt-ma được thọ giới Kālachakra[11] do
Ling Rinpoché truyền cho. Đây là nghi lễ quan trọng nhất trong
Phật giáo Mật tông Tây Tạng, rất có ý nghĩa đối với hòa bình
thế giới. Nhưng không giống với các nghi lễ Mật tông khác, lễ
nầy được cử hành trước đại chúng. Phải qua thời gian từ một
tuần đến 10 ngày để chuẩn bị và hành lễ suốt ba ngày liền.
Một trong những nghi quỹ là phải dùng từng hạt cát có nhiều
màu để làm một đồ hình mạn-đà-la[12] rất lớn, trình bày trên một mặt phẳng, có biểu tượng không gian ba chiều… Lần
đầu khi thấy một trong những đồ hình mạn-đà-la nầy, tôi như bị
ngây ngất vì đồ hình đẹp không thể tưởng tượng được.
Sau lễ Kālachakra, Đức Đạt-lại Lạt-ma nhập thất một tháng… Tôi
nhớ, đó là một kinh nghiệm rất cảm động đối với tôi lẫn Ling
Rinpoché. Tôi đặc biệt may mắn được tham gia vào một truyền
thống từ ngàn xưa, mà bao thế hệ các vị đạo sư đã chứng ngộ
tham dự. Khi tụng đến câu kinh cuối cùng, tôi cảm động đến
nghẹn lời. Điều này, về sau tôi thấy là một điềm lành, dù
lúc đó tôi không nghĩ gì cả.
Cũng trong năm 1953, vào Tết Monlam, Đức Đạt-lại Lạt-ma được
thọ giới tỷ-khưu trong một đại giới đàn, trước tượng
Bồ-tát Quán Thế Âm, tại tu viện Jokhang. Đây là một buổi lễ
rất trang nghiêm và cảm động do Ling Rinpoché làm đạo sư truyền
giới.
Mùa hè năm sau, 1954 do thỉnh nguyện của một số Phật tử,
Đức Đạt-lại Lạt-ma truyền giới Kālachakra lần đầu tiên trong
đời. Lúc đó Đức Đạt-lại Lạt-ma vừa tròn 18 tuổi.
… Tôi vẫn nhớ đạo Phật dạy tôi, một người gọi là kẻ
thù có khi còn quý hơn bạn. Vì kẻ thù dạy ta một số điều mà
bạn không dạy, như sự nhẫn nhịn. Tôi cũng tin tưởng một cách
chắc chắn là, dù tình trạng xấu đến đâu, thì rồi nó cũng sẽ
khá hơn. Cuối cùng, ý hướng bẩm sinh của loài người là tìm sự
thật, sự công bằng và hiểu biết sẽ thắng lướt ngu si và
tuyệt vọng…[13].
Khi nhận biết những đau khổ đó mênh mông như biển, tôi tuyên
bố sẽ thi kỳ chót tại tu viện vào dịp lễ Monlam năm 1959.
… cuối mùa hè năm 1958, tôi đến tu viện Drepung, sau đó
đến tu viện Serra để bắt đầu kỳ thi tốt nghiệp. Tôi sẽ phải
tranh luận nhiều ngày với các học giả thông thái của hai trung
tâm tu học nầy. Ngày thứ nhất tại Drepung, hàng mấy ngàn tăng
sĩ tụng kinh trong đại sảnh. Họ tụng kinh một cách nhịp nhàng, xưng tán chư Phật, Bồ Tát, và Tổ sư. Tôi rơi lệ vì cảm động.
Đến năm 1957, tình hình càng trở nên bi đát, Ngài từ bỏ Lhasa,
đào thoát sang Ấn Độ vào ngày 17 tháng 3 trong bí mật vì sợ bị
giữ lại.
… Sau khi gạt lệ chia tay mọi người, tôi ra đi trên lưng con
bò dzomo lớn. Tôi quá yếu, không thể đi ngựa được. Tôi rời quê
hương bằng phương tiện khiêm nhường ấy…
LƯU VONG
Ngài và 100.000 người dân Tây Tạng đến Dharamsala vào tháng 5
năm 1960. Đó là một vùng đất thuộc phía Bắc Ấn Độ, cách thủ
đô New Delhi chừng một ngày đường, cách biên giới Ấn – Pakistan
khoảng 100 dặm
Tại đây Ngài thành lập chính phủ lưu vong để vừa điều phối
công việc vừa hướng dẫn đời sống tâm linh của dân Tây Tạng.
Từ năm 1967, Ngài bắt đầu rời khỏi Ấn Độ để viếng thăm
Nhật Bản, Thái Lan, rồi đi khắp nơi trên thế giới để truyền bá
Phật pháp và vận động hòa bình cho nhân dân Tây Tạng.
Năm 1973, Ngài qua châu Âu, đến Rome, tiếp xúc với Giáo Hoàng
Phao Lồ VI rồi đến các nước Đan Mạch, Thụy Điển, Hòa Lan, Anh
quốc… Ngài được đón tiếp nồng hậu trong tinh thần Phật giáo
đang được các nước Tây phương lưu tâm.
Tôi lúc nào cũng hoan hỉ nếu có người được an lạc nhờ
thực hành Phật pháp. Nhưng khi việc thực hành Phật pháp khiến
họ phải từ bỏ tôn giáo của mình, thì tôi luôn luôn khuyên họ
phải thận trọng. Thay đổi tín ngưỡng sẽ có thể gây xung đột
nội tâm và hầu như lúc nào cũng rất khó khăn.

THỜI KHÓA CÔNG PHU TRONG NGÀY
Ngài thực hành hạnh nguyện Bồ-tát. Theo tư tưởng Phật giáo
Đại thừa, Bồ-tát là người nguyện sẽ thành tựu sự giác ngộ
tối thượng, hy sinh chính mình để giúp tất cả chúng sinh thoát
khỏi khổ đau. Vậy nên công phu hành trì của ngày được ghi lại
như sau:
»Tôi dùng năm giờ rưỡi trong một ngày để tụng kinh, niệm
Phật, thiền quán và nghiên cứu. Ngoài ra, khi nào rảnh rỗi là
tôi tụng niệm, chẳng hạn vào giữa bữa ăn và khi du hành. Có 3
lý do chính để tụng niệm khi du hành: thứ nhất, để hoàn tất
bổn phận hàng ngày của một tăng sĩ. Thứ hai, để dùng thời
giờ một cách hữu ích. Thứ ba, để bớt sợ hãi! Đối với hành
giả Mật tông, thì việc hành trì ngay trong giấc ngủ hay lúc nằm
mơ là các chuẩn bị hệ trọng cho lúc qua đời.
»… Giờ hành trì tốt nhất đối với tôi là sáng sớm… Tôi
thức dậy vào lúc 4 giờ sáng… Tôi tụng các bài kệ mở đầu một
ngày, sau đó tôi đảnh lễ chư Phật trong nửa giờ. Sau đó tôi ra
ngoài đi bộ, vừa đi vừa tụng các bài kệ…
»Từ 5 giờ 45 đến 8 giờ, tôi ngồi thiền, nghỉ 1 lát vào lúc 6
giờ 30 để nghe bản tin của đài BBC. Từ 8 giờ đến 12 giờ, tôi
nghiên cứu các tư tưởng triết học Phật giáo. Từ trưa đến lúc
ăn cơm 12 giờ 30, tôi đọc công văn, báo chí. Từ 1 giờ đến 5 giờ,
làm việc ở văn phòng chính phủ và tiếp khách. Nghỉ ngơi và
dùng trà vào lúc 6 giờ. Từ 8 giờ 30 tụng kinh rồi nghỉ ngơi
vào lúc 9 giờ 00.
»Thời khóa hàng ngày chỉ thay đổi khi an cư. Trong dịp
đó, ngoài công phu hành trì thường nhật, tôi còn thiền quán các
phép đặc biệt…«
Năm 1989, Đạt-lại Lạt-ma Tenzin Gyatso nhận được giải Nobel
Hòa bình do nỗ lực cống hiến cho phong trào bất bạo động và
nhân quyền trên thế giới.
Đến nay Ngài vẫn còn tu tập và làm việc tại Dharamsala. Có
rất nhiều ấn phẩm ghi lại các cuộc phỏng vấn, bài phát biểu,
bài viết của Ngài được dịch từ tiếng Tây Tạng sang tiếng Anh,
như:
— Tự do trong lưu đày (Freedom in exile) 1992
— The World of Tibetan Buddhism 1994
— The Meaning of Life from a Buddhist Perspective 1991
— My people, my land
— The Dalai Lama at Harvard, 1988 (Lectures on the Buddhist path to peace)
— The Way to Freedom, 1997
- Theo Hoằng Pháp (hoangphap.info)
MỜI ĐÓN XEM TIẾP PHẦN 2: PHỎNG VẤN ĐỨC ĐẠT-LẠI LẠT-MA THỨ 14 TENZIN GYATSO
